1. Ngôi tu viện và nhị vị Hòa Thượng
Nhìn riêng một tòa chánh điện có thể người ta sẽ nghĩ đó là một ngôi trường học cũ kĩ, nhìn toàn cảnh sẽ hình dung ra chiếc y bá nạp của vị tu sĩ với nhiều loại vải, khuôn khổ và sắc màu khác nhau đã hành khất qua hàng ngàn dặm đường gió bụi, vừa kham khổ lại vừa dơ, vừa rách. Đó chính là hình dáng của tu viện Huệ Quang hiện nay. Tu viện tọa lạc tại số 116, đường Hòa Bình, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, gần công viên văn hóa Đầm Sen.
Tu viện do cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng khai sơn vào năm 1970. Ban đầu, tu viện chỉ chuyên về Thiền. Hiện nay, để phù hợp với nhu cầu tu học của các lưu học tăng và Phật tử trong vùng, việc tu tập ngoài thời khóa tọa thiền còn có tụng kinh trì chú.
Tu viện hiện tại có mười lăm vị Tăng sĩ, năm chú công quả và khoảng mười em sinh viên thường đến phụ việc. Phật tử tụng kinh mỗi tối vài chục người, ngày thứ bảy và chủ nhật khoảng trăm, ngày sám hối chánh điện nở rộng ra hành lang và mặt sau cũng không đủ chỗ.
Lần trùng kiến năm 2013 bị hoãn lại do tình hình tài chính khó khăn và quy hoạch lộ giới của thành phố. Toàn bộ bản vẽ được thực hiện lại.
Ngày 02/10/2011, công cuộc trùng tu chính thức được khởi động, bắt đầu với dãy tây lang. Chùa mới được xây theo hình chữ sơn 山 viết ngược thứ tự. Nét bên phải trước, đến nét bên trái sau đó mới đến gạch giữa. Gạch giữa gồm hai tần trệt, một hầm. Trên cùng là chánh điện thay vì tượng đức Phật Di Lặc như bản vẽ, dưới là phòng đọc thư viện, dưới nữa là giảng đường và hầm để xe. Dãy mé đông (bên trái chùa) dành cho công việc phiên dịch và giáo dục: phòng dịch, lớp học, thư viện. Dãy mé tây (bên phải chùa) và phía sau là nhà Tổ và sinh hoạt nội viện. Đó là mô hình đang được tiến hành và bố cục dự kiến.
Diện tích xây cất chiếm 40% diện tích đất chùa đã trừ phần quy hoạch lộ giới cắt xén (2200 -400 = 1800 mét vuông). Nếu hội đủ duyên lành ngôi tu viện sẽ được hoàn thành trong khoảng thời gian từ 3 - 4 năm. Trong đó, dãy tây lang mất khoảng một năm.
Hòa Thượng Thích Huệ Hưng (1917 - 1990) thế danh Nguyễn Thành Chẩm, pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Huệ Hưng, quê Đồng Tháp là đệ tử tổ Vạn An Sa Đéc. Thuở sinh tiền Ngài chuyên dạy luật và hành thiền. Ngài có trình độ hiểu biết sâu rộng lại gánh vác nhiều trọng trách của giáo hội nhưng đời sống của Ngài thật đơn giản, khiêm tốn và chân thật. Hình ảnh của Ngài như còn phảng phất trên những đường nét kiến trúc đơn sơ của ngôi tu viện, khiến cho những người hằng ngày đến đây như được đắp lên mình một lớp áo tinh thần dung dị, hiền hòa.
Sau khi viên tịch, Hòa Thượng được nhập tháp tại Đại Tòng Lâm, Bà Rịa. Hòa Thượng để lại di chúc với ba ước vọng lớn:
1. Thành lập một lớp hoằng giới
2. Thành lập tu viện chuyên tu
3. Mở lớp huấn luyện trụ trì
Tầm nhìn giáo dục đó, mãi hơn hai mươi năm sau đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị thời sự của nó.
Một số chức vụ Hòa Thượng từng đảm nhiệm:
1. Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN
2. Trưởng ban Phật giáo chuyên môn Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
3. Hiệu phó trường Cao cấp Phật học Việt Nam
4. Phó ban trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh
5. Tổng lý Hội đồng quản trị Tổ đình Ấn Quang
6. Trụ trì chùa Kim Huê (Sa Đéc), tu viện Huệ Quang
Một số tác phẩm để lại:
1. Kinh Duy Ma Cật, 1951, chùa Tuyền Lâm in lại 1970
2. Kinh Kim Cang giảng lục, Phật Quang, 1956, chùa Tuyền Lâm in lại 1970
3. Pháp môn tu chứng lăng nghiêm đại định
4. Giới bổn tì kheo ni
5. Kinh Phật thuyết đương lai biến (bản thảo)
6. Kinh Phật thuyết diệt tận (bản thảo)
7. Tập tri kiến giải thoát (bản thảo)
8. Kinh Phạm võng hiệp chú (bản thảo, 10q)
Người kế nhiệm Ngài ở Huệ Quang là Hòa Thượng Thích Minh Cảnh.
Tuy không hoàn thành hết những ước vọng mà tôn sư để lại, nhưng người kế nhiệm cũng đã đưa ngôi tu viện đi vào một lĩnh vực đặc thù thiết yếu, bổ sung vào khoảng trống mà giáo dục Phật giáo còn bỏ ngỏ. Đó là con đường đào tạo và dịch thuật Hán Nôm.
Hòa Thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh năm 1937, xuất gia với Hòa Thượng Thích Trí Tịnh từ năm 1948 với pháp danh Minh Cảnh. Hòa Thượng đồng thời cũng là người em út thứ mười của Hòa Thượng Thích Huệ Hưng.
Một số chức vụ đã đảm nhiệm:
1. Hiệu trưởng trường Bồ đề Long Khánh
2. Chánh đại diện Phật giáo quận Tân Bình
3. Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam kiêm Trưởng ban Dịch Thuật Hán Nôm
4. Giám đốc trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang
...
Một số tác phẩm đã xuất bản:
1. Từ điển Phật học Huệ Quang, bộ 8 tập, NXB Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh (chủ biên)
2. Tế Điên Hòa Thượng, bộ 4 tập, NXB Tôn giáo, 2001
3. Kinh Phật thuyết A Di Đà lược giải
4. Kinh Pháp hoa phẩm Phổ Môn lược giải
5. Kinh Vô lượng Thọ
...
2. Lớp Hán Nôm đầu tiên và công trình Từ điển Phật học Huệ Quang
Doanh Thương Trí Dũng là một trong những ngôi trường tư thục đầu tiên tại Sài Gòn sau năm 1975, do các vị luật sư Võ Văn Quới, Trần Văn Danh... đứng ra tổ chức. Trường chuyên đào tạo về tin học và các loại sinh ngữ. Năm 1991, nhận thấy phong trào Hán học ngày càng suy yếu và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực Hán Nôm để nghiên cứu vốn cổ văn hóa dân tộc quá cấp bách, dưới sự đề nghị của các vị tôn túc Phật giáo, trường đã tổ chức lớp cổ ngữ Hán Nôm.
Thật bất ngờ, số học viên đa phần là tăng ni đăng kí vào có trên một ngàn vị. Sau khi thi tuyển, ngoài các học viên tùy theo trình độ được học các lớp từ thấp đến cao, có khoảng mười bảy học viên xuất sắc đã buộc ban chủ nhiệm mở riêng một lớp gọi là lớp Cao cấp Luyện dịch Hán Nôm đặt tại tu viện Huệ Quang dưới sự dẫn dắt của Hòa Thượng Thích Minh Cảnh với ý tưởng sau khi ra trường sẽ bắt tay vào phiên dịch bộ Phật Quang Đại Từ Điển.
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm được mời dạy luật Yết ma chỉ nam, cư sĩ Định Huệ dạy kinh, GS. Nguyễn Khuê dạy cổ văn, cô Vương Thị Hạnh dạy Việt văn và một số giảng viên thỉnh giảng khác. Khóa Hán Nôm đầu tiên của
Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm (TTDTHN) Huệ Quang gồm 16 vị: Thầy Viên Khai, thầy Nguyên Chơn, thầy Vạn Hạnh, thầy Chiếu Sáng, thầy Minh Thanh, SC Nhật Đạo, SC Nhật Nhẫn, SC Như Hiếu, SC Như Thủy, SC Từ Huyền, SC Viên Nhã, SC Từ Nguyên, SC Như Đức, SC Như Giác, SC Diệu Phúc. Với trình độ tri thức phổ thông và chuyên môn Hán học khá tốt, chỉ sau hai năm đào tạo các kỹ năng chuyển dịch, trao dồi tiếng việt và nghiên cứu Hán Nôm kết hợp với việc không ngừng luyện tập, cọ xát với văn bản, các học viên đã đủ vững chãi bắt tay vào công việc ngay trong năm ra trường 1994.
Vào thời điểm TTDTHN Huệ Quang bắt đầu biên soạn bộ Từ Điển Phật Học Huệ Quang (TĐPHHQ) tại Việt Nam đã và đang có một số bộ từ điển Phật học bằng tiếng Việt như:
1. Phật học từ điển, Đoàn Trung Còn biên soạn, Phật Học Tòng Thơ in lần thứ nhất - 1966, 3 tập, 1530 trang
2. Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Lê Mạnh Thát chủ biên, NXB Tu thư Vạn Hạnh, 1980, 2 tập, chưa hết vần A.
3. Từ điển Phật học Việt Nam, Minh Châu và Minh Chi biên soạn, NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1991, 820 trang.
4. Từ điển Phật học Hán Việt, Kim Cương Tử chủ biên, NXB Hà Nội, 1992 - 1994, 2 tập, 2127 trang trang gần 20.000 mục từ.
5. Phật quang đại từ điển, HT. Thích Quảng Độ dịch, NXB Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc, 2000, 6 tập, khổ 16 x 24 cm, 7374 trang.
Như vậy, tại sao cần phải biên soạn bộ TĐPHHQ? Với một đất nước 80 triệu dân, hơn phân nửa là Phật tử, nhu cầu học Phật ngày càng cao mà người biết chữ Hán ngày càng ít, mỗi khi không hiểu điều gì chẳng còn mấy người đủ khả năng tra cứu từ các bộ từ điển Phật học chữ Hán. Trong khi đó, bộ Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn ra đời từ năm 1966 không còn thỏa mãn được nhu cầu tra cứu. Bộ Từ điển Bách Khoa Phật giáo của Lê Mạnh Thát, mặc dù rất đầy đủ nhưng biên soạn chưa hết vần chữ A thì ngưng lại cho đến nay nên cũng chẳng thể sử dụng được. Bộ Từ điển Phật học Việt Nam do Minh Châu và Minh Chi biên soạn có ưu điểm là có phần Phật giáo Việt Nam, nhưng với dung lượng 820 trang nó chỉ là một cuốn từ điển gia giáo. Bộ Từ điển Phật học Hán Việt của nhóm tu sĩ và giáo sư miền Bắc biên soạn với gần 20.000 mục từ (như sách giới thiệu) là bộ từ điển Phật học có lượng thuật ngữ lớn nhất thời bấy giờ. Nhưng bộ này có một vài điểm khiêm tốn: hình thức trình bày không đẹp, lượng thông tin cho một mục từ qua ít mà lại không ghi xuất xứ nguồn, không có phần Phật giáo Việt Nam và không có hình ảnh.
Trước tình hình đó, không hẹn mà gặp, cả hai công trình làm từ điển Phật học, một của cá nhân và một của tổ chức cùng được tiến hành, xuất phát từ bản gốc là bộ Phật quang đại từ điển.
Phật quang đại từ điển được nhóm 50 vị gồm tu sĩ và học giả Đài Loan biên tập ròng rã trong mười năm 1978 - 1988, ni sư Từ Di chủ biên, Đại sư Tinh Vân giám tu, với hơn 22.000 mục từ và 3.000 hình ảnh, là bộ từ điển Phật học bằng tiếng Hán lớn nhất khi ấy. Nội dung từ điển bao gồm các thuật ngữ về pháp số, nhân danh, địa danh Phật giáo, các tác phẩm văn học Phật giáo, các công trình, các sự kiện Phật giáo ... của các nước Phật giáo như Ấn Độ, Tích Lan, Nhật Bản đặc biệt là Trung Quốc. Các thắc mắc của người học Phật về Phật giáo hầu như có đủ trong bộ từ điển này. Về hình thức, Phật quang đại từ điển được trình bày rất khoa học. Mỗi mục từ được mô tả gồm: tên tiếng Phạn, tên gọi khác, nội dung mục từ, các quan điểm giải thích mục từ, hình ảnh và xuất xứ của mục từ.
Hòa thượng Quảng Độ với trình độ uyên thâm, đã một mình chuyển ngữ toàn bộ bộ Phật Quang đại từ điển, được xuất bản trọn bộ tại Đài Loan vào năm 2000. Đây là bộ từ điển thuần túy dịch thuật, có thể vì vậy nó được giữ nguyên nhan đề Phật Quang đại từ điển (PQĐTĐ). PQĐTĐ không có phần Phật giáo Việt Nam. Đó cũng chính là sự khác biệt về nội dung giữa bộ PQĐTĐ do hòa thượng Quảng Độ dịch và bộ TĐPHHQ do TTDTHN Huệ Quang biên soạn. TĐPHHQ do hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên dưới sự bảo trợ của cư sĩ Thiện Chí Hoàng Mạnh Hùng. Số người tham gia soạn dịch và hiệu chỉnh tổng cộng trên 50 và làm việc trong 10 năm (1994 - 2004). TĐPHHQ đã thêm vào hơn 1.000 thuật ngữ Phật giáo Việt Nam. Về cách thức tổ chức làm việc, bộ TĐPHHQ cũng khác hẳn các bộ khác, làm việc nhóm nhiều người thay vì một người. Soạn dịch xong, sau nhiều lần chỉnh sửa với sự góp sức của chư thiện tri thức xa gần, TĐPHHQ đã được in cảo bản gồm mười tập. In xong lại tiếp tục sửa và cho xuất bản lần lượt từng tập. Tập 1, 2 xuất bản năm 2003; tập 4 xuất bản năm 2004… tập 8, tập cuối cùng, xuất bản năm 2007. Bộ từ điển hoàn thành với hơn 23.000 mục từ. Bộ từ điển với 7260 trang, khổ giấy 21 x 29.7 cm được thực hiện bởi NXB Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Tập 8 là tập mục lục gồm 44.581 mục từ giúp tra cứu tên gọi khác đồng nghĩa của cùng một mục từ và 6.260 mục từ tra cứu bằng tiếng nước ngoài. TĐPHHQ biên soạn lại hoàn toàn các mục từ, kể cả mục từ Phật giáo Việt Nam theo một trật tự khoa học để tiện việc tra cứu. Theo đó, mỗi mục từ bao gồm các nội dung được trình bày xuống dòng theo thứ tự:
- Số mục từ
- Tên mục từ
- Tên tiếng Hán
- Tên tiếng Phạn, Pali
- Tên gọi khác
- Tên gọi tắt
- Nội dung
- Các ý kiến khác
- Hình ảnh (nếu có)
- Nguồn trích dẫn
TĐPHHQ hoàn thành cho thấy phương hướng và cách thức làm việc của Huệ Quang. Phương hướng biên soạn bộ TĐPHHQ vẽ ra mô hình một bộ Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam khi mà tình hình tư liệu về Phật giáo Việt Nam ngày càng đầy đủ. Cách thức làm việc của Huệ Quang là vừa làm việc vừa đào tạo, đào tạo kiến thức và thói quen biết lắng nghe ý kiến người khác. Và chỉ khi với lực lượng các thành viên vừa dồi dào, vừa đồng lòng và có đủ trình độ chuyên môn thì mới nghĩ đến những công trình to lớn hơn. Chưa từng thấy nước nào biên soạn bộ bách khoa, hoặc có tính chất bách khoa với chỉ một tên người cô độc trên đầu sách!
TĐPHHQ phải khắc phục một số điểm sau nếu như muốn đi tiếp: trọng lượng quá lớn, toàn bộ hình ảnh không sắc nét - nhòa do cách làm việc thủ công và trình độ tin học khi ấy, có nhiều mục từ còn tối nghĩa, lỗi chính tả và quy cách còn khá nhiều, phần Phật giáo thế giới còn rất khiêm tốn và phần Phật giáo Việt Nam cũng chưa đủ. Cần phải chuẩn bị nhân sự cho từng mảng cụ thể.
Việc biên soạn TĐPHHQ cũng là bước đệm cho chương trình dịch Đại tạng kinh chữ Hán và dịch thuật Hán Nôm dài lâu.
Lớp Hán Nôm đầu tiên là lớp học có nhiều người giỏi. Trong đó có ba vị xuất sắc: thầy Nguyên Chơn, thầy Viên Khai, thầy Nguyên Hiền vẫn
chuyên tâm theo con đường Hán Nôm và đã có nhiều đóng góp giảng dạy, dịch thuật cho trung tâm Huệ Quang. Họ vừa là những người anh vừa là người thầy của các khóa sau
3. Chín khóa luyện dịch Hán Nôm tiếp theo
Có bao nhiêu trái chín người ta đã hái hết trong lần đầu tiên. Thôi thì đành lượm mót trái già vậy! Trái già dú hoài cũng chín, trái non để hoài cũng già, mặc dù biết rằng hàng chục trái non mới được một trái chín. Với tinh thần ấy, trong suốt 14 năm kế tiếp (1998 - 2011), Huệ Quang đã không mệt mỏi, cố gắng tổ chức các lớp luyện dịch Hán Nôm được chín khóa. Trong chín khóa này, số học viên thi vào có đến hàng ngàn nhưng số lượng tốt nghiệp chỉ khoảng 100, và số người chuyên nhất vào con đường thầm lặng này không quá 1/3 số người đã tốt nghiệp.
KHÓA | LỚP | GHI DANH | NĂM I | NĂM II | NĂM III | NÂNG CAO (2 - 3 NĂM) |
2 | 1999 - 2002 | 0 | 33 | 24 | 18 | 20 |
3 | 1999 - 2003 | 72 | 34 | 19 | 18 | 20 |
4 | 2000 - 2004 | 22 | 17 | 17 | 15 | 13 |
5 | 2001 - 2003 | 15 | 17 | Nghỉ | Học chung khóa sau | |
6 | 2004 - 2008 | 82 | 35 | 25 | 22 | 20 |
7 | 2007 - 2011 | 77 | 28 | 20 | 15 | 15 |
8 | 2008 - 2012 | 0 | 34 | 29 | 26 | |
9 | 2010 - 2013 | 0 | 38 | 15 | ||
10 | 2011 - 2014 | 0 | 40 |
Bảng thống kê học viên qua các khóa
Đây là bảng thống kê chưa tính đến các thí sinh tự do, các học viên bổ sung.
Những học viên thi tuyển vào các lớp Hán Nôm tại Huệ Quang đều hiểu và chấp nhận họ từ tay trắng đến và trở về trắng tay. Họ ước vọng rằng tay mình trắng để kiến thức mình có màu, nhưng phần nhiều màu mới chớm thắm họ đã chuyển hướng, không hẳn là họ đã hết tình yêu thương với mái lá Huệ Quang!
Tình trạng bông xoài trứng cá như thống kê ở trên ngoài những nguyên nhân ngoại tại không cần phải nhắc tới, cái chính yếu nằm ngay bản thân nội tại của Huệ Quang. Nhìn chung, ngoài chủ trương tổ chức tuyển sinh mỗi năm là tiến bộ, các khâu còn lại đều hết sức bất cập. Thứ nhất thiếu
một ban điều hành nên công việc tổ chức có tính gia giáo, không đáp ứng kịp thời việc dạy và học ngày càng rộng mở. Không theo sát học viên, giảng viên để có thể biết được tâm tư nguyện vọng của họ trong từng giai đoạn cụ thể. Thứ hai không tự chủ được nguồn giảng viên. Thứ ba chưa hình thành được bộ giáo trình khung, nhất là môn Hán cổ mỗi năm mỗi thay giảng viên, mỗi lần thay giảng viên là thay cả một phương pháp và giáo trình, dễ làm người học mất phương hướng. Thứ tư chưa tổ chức được việc học nhóm một cách hiệu quả cũng như không khơi gợi được tinh thần tư duy độc lập của học viên. Thứ năm, không tạo được niềm đam mê của học viên đối với việc nghiên cứu Hán Nôm. Là trung tâm Hán Nôm, mà chỉ thấy phần dịch Hán chưa thấy nghiên cứu Nôm, đã có học vài ba khóa chữ Nôm nhưng chưa thấy học viên nào chuyên tâm vào con đường này, cũng như chưa thấy công trình nghiên cứu hay phiên dịch chữ Nôm nào được ra đời từ những người học ở đây. Thứ sáu, chưa đảm bảo việc làm cũng như chỗ ở một cách tương đối cho những người ra trường, để giúp họ có thể đi sâu vào chuyên môn.
Các học viên trong chín khóa ở lại làm việc và giảng dạy có:
- Khóa 2: các SC Viên Lộc, Tắc Phú, Huệ Trang, Ngộ Bổn, Khánh
Hiếu, Truyền Từ, Diệu Quý.
- Khóa 3: các thầy Nguyên Trang, Nguyên Thanh; các SC Như Chơn, Viên Thắng, Linh Thảo.
- Khóa 4: các SC Lệ Tuyên, Giới Niệm, Diệu Thảo
- Khóa 6: các thầy Chúc Thuận, Chúc Tâm, SC Chúc Giải.
Ngoài ra, cũng có những vị từ nơi khác đến, cùng học lớp nâng cao rồi làm việc tại Huệ Quang như: thầy Thiện Thuận, SC Bảo Giác; có những vị được đặt cách vào; có những vị tốt nghiệp rồi đi du học, đi nơi khác giảng dạy
* Các lớp buổi tối
Ngoài các lớp buổi sáng, để đáp ứng nhu cầu của đông đảo đồng bào, Phật tử, sinh viên và tăng ni không có điều kiện học buổi sáng, trong mấy năm gần đây, Huệ Quang đã tổ chức các lớp Hán cổ và Hán kim vào buổi tối. Các lớp Hán cổ do các thầy tại Huệ Quang giảng dạy, các lớp Hán kim do Cô Lã Hạnh Ly, một giảng viên của Huệ Quang, tổ chức dưới danh nghĩa của trường Đại học Sư Phạm.
4. Dịch Đại tạng kinh từ Hán sang Việt
Những ý kiến cho rằng Trung Quốc đã có Đại tạng kinh hàng ngàn năm rồi mà Việt Nam vẫn chưa có, là một nhận định không hợp lý.
Chữ Nôm hình thành khoảng thế kỷ 13 - 14 và phát triển vào thế kỷ 18 - 19.
Chữ Quốc ngữ manh nha từ thế kỷ 16 - 17 và phát triển vào đầu thế kỷ 20. Phát triển chứ chưa đạt mức chuẩn hóa
Nhưng cả khi có chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ rồi, cái học ở ta vẫn là cái học truyền thống lấy chữ Hán làm ngôn ngữ chính cho đến tận những năm 30 của thế kỷ trước.
Lịch sử cho thấy, vào thời Lý - Trần, nước ta đã ít nhất hai lần cho khắc bản in Đại tạng kinh. Theo tác giả của Việt Nam Phật giáo sử luận thì trong hai bộ Đại tạng đó còn có nhiều tác phẩm của các thiền sư Việt Nam.
Cũng như Cao Ly, một nước đồng văn của Trung Quốc, ý thức và bằng chứng về bộ Đại tạng kinh cho quốc gia mình của Việt Nam đã là một thực tế từ lâu. Ý thức ấy, vẫn được tiếp nối khi đất nước dần chuyển sang sử dụng loại chữ mới.
Trong khoảng thế kỷ 17 - 20, nhiều tác phẩm Nôm, diễn Nôm, thích Nôm đã ra đời.
Trong thế kỷ 20, nhiều tác phẩm kinh Phật bằng chữ Quốc Ngữ đã được ấn hành. Năm 1973, một biên bản ghi chép cuộc Hội nghị toàn thể hội đồng phiên dịch Tam Tạng đã ra đời. Cuộc hội nghị được tổ chức tại Đại học Vạn Hạnh từ ngày 20 đến ngày 22 tháng 10 năm 1973. Chủ tọa đoàn: Thượng tọa Trí Tịnh, Minh Châu, Quảng Độ. Các thành viên: Thượng tọa Thiện Siêu, Huyền Vi, Trí Thành, Huệ Hưng, Thuyền Ấn, Trí Nghiêm, Thiền Tâm, Thanh Từ, Bửu Huệ, Trí Quang, Đức Nhuận... Hội nghị đã phân chia công việc phiên dịch, tổ chức tài chính, ấn loát và sau đó là đề án quy hoạch xây dựng một trung tâm dịch thuật mà vị trí được dự định đặt tại khu chế xuất Linh Trung, gần cầu vượt Suối Tiên hiện nay.
Tuy việc lớn không thành, một số vị trong hội đồng cũng đã dịch được nhiều bộ như:
- Bộ Đại bát nhã của HT. Trí Nghiêm
- Các bộ Hoa nghiêm, Bảo tích, Pháp hoa… của hòa thượng Trí Tịnh
- Các bộ luận của hòa thượng Thiện Siêu
- Bộ Đại tạng kinh Nam truyền do hòa thượng Minh Châu dịch từ Pali, thượng tọa Tuệ Sỹ dịch từ bản Hán
- Nhiều bản dịch kinh luận của hòa thượng Trí Quang
Nhưng bộ Đại tạng kinh chữ Việt vẫn chưa ra đời.
Năm 2000, phần kinh tạng của Đại tạng kinh chữ Việt, gồm 69 tập, mỗi tập khoảng 1000 trang, được Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc in ấn quy mô và trang trọng tại Đài Loan, sau đó được gởi tặng các trường Phật học, các trường đại học ở Việt Nam. Đó là bộ Linh Sơn Pháp Bảo Đại tạng kinh do HT. Thích Tịnh Hạnh, chùa Pháp Bảo, Thủ Đức tổ chức dịch. Ưu điểm về tài chính đã giúp Pháp Bảo tiến hành công việc tương đối mau lẹ, bằng cách mời người biết chữ Hán khắp nơi để phiên dịch và trả nhuận bút tính bằng số trang mà vị ấy dịch được. Kết quả, những sản phẩm mang về các biên tập viên phải sửa vất vả hơn là tự dịch lại hoàn toàn. Chất lượng của công trình này không được người có hiểu biết đánh giá cao.
Vì những lý do trên, năm 2007 TTDTHN Huệ Quang đã triển khai chương trình phiên dịch Đại tạng kinh từ Hán sang Việt, lấy bản Đại chánh tân tu đại tạng kinh, gồm 105 tập chánh tạng và 90 tập tục tạng, mỗi tập khoảng 1000 trang chữ Hán, khổ giấy 21 x 29 cm, do Bạch Mã Tinh Xá Ấn Kinh Hội ấn hành làm định bản. Mỗi trang trong Đại tạng kinh chữ Hán dịch thành 4 - 5 trang chữ Việt. Chương trình dự kiến tiến hành trong 20 năm. Đến dự lễ hôm ấy có sự chứng minh của Hòa thượng chủ biên Thích Minh Cảnh, GS. Lê Mạnh Thát - đại diện Viện Nghiên cứu Phật học, cư sĩ Định Huệ, nhà bảo trợ Hoàng Mạnh Hùng, các vị giáo thọ lớp Luyện dịch, chư thiện hữu tri thức, các thành viên Ban dịch thuật Huệ Quang, tăng ni sinh, chính quyền và Phật tử.
Để đi đến buổi triển khai chương trình dịch Đại tạng kinh ấy, từ năm 1992 khi tổ chức lớp Hán Nôm đầu tiên và sau đó biên soạn bộ Từ điển Phật học Huệ Quang, những người điều hành TTDTHN Huệ Quang đã nghĩ đến. Chặng đường chuẩn bị nhân sự mất 15 năm ròng.
Từ năm 2007, sau khi triển khai chương trình đến nay, Ban dịch thuật vẫn làm việc đều đặn. Có những lúc khó khăn về trang thiết bị, phòng làm việc, có những lúc khó khăn về tài chính khi người bảo trợ đột ngột mất đi và những khó khăn khác nữa… tưởng chừng như công việc đã phải ngưng lại. Nhưng rồi, mọi người đều đồng lòng vượt qua, và mỗi tuần vẫn đến làm việc tập trung vào hai ngày thứ hai và thứ ba để tổng kết trao đổi công việc đã làm trong tuần.
Đến nay, 2011, Trung tâm đã dịch được một phần lớn tạng kinh và đã qua hiệu đính lần 1. Người chịu trách nhiệm hiệu đính là HT. Minh Cảnh và cư sĩ Định Huệ. Bản dịch khi được in ấn sẽ qua hiệu chỉnh lần 2 và khâu chuốt văn.
TTDTHN Huệ Quang sẽ dịch lại toàn bộ Đại tạng kinh và phần kinh điển Hán Nôm do các thiền sư Việt Nam trước tác diễn nghĩa. Khi in thành Đại tạng kinh chữ Việt sẽ in toàn bộ bản dịch do Huệ Quang tiến hành, bên cạnh in các trùng bản có giá trị đã ấn hành tại Việt Nam từ trước đến nay.
Nguồn lực quan trọng nhất để dịch Đại tạng kinh mà chẳng mấy nơi có được như Huệ Quang chính là đội ngũ dịch thuật đông đảo, đồng bộ, có kinh nghiệm nhiều năm, được đào tạo chuyên môn và thường xuyên làm việc nhóm với nhau. Đó là thành tựu nhờ chiến lược đào tạo đúng đắn mang lại. Nhưng việc tổ chức còn nhiều bất cập và điều kiện eo hẹp về vật chất khiến cho Huệ Quang không thể có được những nhà chuyên môn để phụ vào công việc hiệu chỉnh và chuốt văn vốn rất nặng nhọc mà hòa thượng Minh Cảnh và cư sĩ Định Huệ phải còng lưng gánh vác.
Xen kẽ vào chương trình dịch Đại tạng kinh dài lâu, hằng năm Huệ Quang cho ra mắt một số dịch phẩm cần yếu để đáp ứng nhu cầu người học.
Trong thời gian qua đã ấn hành một số tác phẩm:
- Kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng giác
- Công đức niệm Phật
- Tại sao phải làm Phật sự
- Luận tịnh độ
- Chuyện bách dụ
Trong năm tới, 2012, Huệ Quang sẽ ấn hành một số bộ:
- Phật tổ đạo ảnh
- Chặng đường tham học
5. Ấn phẩm Suối Nguồn
Để gây không khí học thuật cho một trung tâm Hán Nôm qua việc tạo ra mảnh đất để gieo trồng các hạt giống chữ nghĩa được hun đúc lâu nay, ấn phẩm Suối nguồn tập 1 tuôn chảy vào mùa Vu Lan 1998 (PL.2542); Suối nguồn tập 18, số cuối cùng, kết thúc vào mùa Vu Lan 2004 (PL.2548). Qua sáu năm, Suối nguồn ra được 18 tập.
Suối nguồn thuộc Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang do HT.Thích Minh Cảnh chủ biên, Thầy Thích Nguyên Hiền biên tập. Một mình vị biên tập này đã gánh hết mọi khâu từ viết bài với nhiều bút danh, góp bài, trình bày bìa, biên tập, in ấn, và cả công việc biếu tặng. Suối nguồn đã cho thấy nó có một vị biên tập năng động và đa năng đến mức nào.
Nội dung Suối nguồn thể hiện sự hài hòa giữa tính nghiên cứu và tính văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, nó dừng lại ở một tầm nhất định. Có nhiều bài viết giá trị nhưng cũng có nhiều bài châm chước khích lệ tinh thần. Về hình thức, Suối nguồn được xem là một ấn phẩm Phật giáo thuộc loại đẹp, có ý thức trình bày rất rõ qua việc ghi số tập và trình bày bìa tương đối nhất quán. Các quy ước về viết tắt, viết hoa, in nghiêng… cũng đã được ấn định ở mức tương đối. Những hình ảnh trong Suối nguồn hầu hết là hình ảnh đường nét, mang tính nghệ thuật, tránh được màu sắc cải lương thường thấy ở các đặc san lưu hành nội bộ. Không gian bài viết có khoảng trống để thở qua việc cách đoạn, qua trang khi bắt đầu bài mới và xen kẽ vào các phụ bản bằng thư pháp.
Chảy được sáu năm, ngưng sáu năm, Suối nguồn lại tuôn chảy với một tư thế mới không chỉ đáp ứng nhu cầu tri thức - giải trí cây nhà lá vườn mà với hình thức và nội dung phát triển hơn trước, Suối nguồn bộ mới “là một sản phẩm học thuật , trên cơ sở nghiên cứu Hán Nôm và các bộ môn Văn, Sử, Triết, Tôn giáo, góp phần xiển dương Phật pháp, gìn giữ quốc văn, và xây dựng văn hóa dân tộc, thích nghi với những điều kiện mới của thời đại và hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện tại của đất nước”.
Suối nguồn bộ mới dự kiến mỗi năm ra 4 tập vào các dịp lễ lớn của Phật giáo. Suối nguồn tập 1 và tập 2 bộ mới đã ra mắt vào dịp lễ Phật Đản và Vu Lan 2011. Suối nguồn tập 3 và 4 sẽ ra mắt vào lễ Phật thành đạo. Suối nguồn cũng được phát hành ra bên ngoài để phục vụ rộng rãi bạn đọc
Trong thời buổi tình trạng khủng hoảng môi sinh nghiêm trọng, rừng đầu nguồn bị chặt phá, nguồn nước cạn kiệt, Suối phải chảy như thế nào đây để có đủ nước, để nguồn suối mãi trong mát mang nước đến mọi nhà?
6. Thư viện Huệ Quang
Thư viện Huệ Quang (TVHQ) thuộc TTDTHN Huệ Quang, mở cửa năm 2007 với trên 7.000 đầu sách. Nguồn sách này chủ yếu do nhị vị hòa thượng Huệ Hưng và Minh Cảnh xây dựng với ý nguyện thành lập một thư viện chung để mọi người cùng tham khảo. Thư mục được đưa lên trang web của tu viện Huệ Quang là tuvienhuequang.org. Sau đó đưa lên trang web chuyên về thư viện là thuvienhuequang.vn
Từ năm 2007 - 2010, TVHQ đã hoạt động thông thoáng và tích cực. Phần lớn tư liệu được cho mượn về nhà, mở cửa tất cả các ngày trong tuần kể cả buổi tối, không ngừng bổ sung sách mới và sưu tầm sách cũ. Tháng 10 năm 2010, bức thư ngỏ về việc tặng sách cho thư viện được gởi đến các tự viện trong thành phố và một số nơi có quan tâm. Lúc này đầu sách tại thư viện có khoảng 15.000. Trong vòng một năm kể từ khi sứ giả thư ngỏ tung cánh gõ cửa bao tâm hồn đồng điệu và bao tủ sách bấy lâu khóa kín, thư viện nhận được gần 400 thùng sách trong và ngoài nước gởi tặng. Tính đến thời điểm tháng 10 năm 2011 này, thư viện có trên 20.000 đầu sách. Trong đó, sách - báo tiếng Việt khoảng trên 15.000 đầu, sách tiếng Hán3.000 đầu, sách Hán Nôm khoảng 500 đầu, sách các nước khác trên 1.000 đầu. Ngoài ra, còn có bản kinh khắc gỗ, sách điện tử, sách nói… Hiện thư mục sách tiếng Việt sau 1975 bổ sung đã hoàn tất và đang được cập nhật lên trang web theo cách thức của một thư viện chuyên nghiệp. Phần mềm trang web của TVHQ do chính các nhân viên của thư viện tự lập trình.
TVHQ chủ trương rộng rãi về nguồn từ liệu nhưng phát triển có định hướng các trọng điểm như: sách Hán Nôm, sách Phật giáo xưa, sách Phật giáo mới có giá trị, báo chí - kỷ yếu Phật giáo. Mảng sách ngoài Phật giáo có giá trị như: sách nghiên cứu, sách công cụ, sách liên ngành cũng được chú trọng bổ sung.
Hằng năm thư viện đều tổ chức các chuyến sưu khảo tư liệu, đặc biệt là tư liệu Hán Nôm vừa để làm nguồn tư liệu cho một trung tâm Hán Nôm, giúp tư liệu không bị mai một, vừa khơi gợi tình yêu Hán Nôm đối với học viên cũng như khơi gợi ý thức bảo quản tư liệu của một số nơi đang sở hữu nguồn tư liệu quý hiếm đó.
TVHQ luôn định hướng theo mô hình một thư viện điện tử Phật giáo, xem thư viện điện tử là con đường tất yếu, khi mà những trang thiết bị điện tử ngày càng được nâng cao. Do vậy, bên cạnh việc sưu tầm, bổ sung tư liệu, thư viện đã và đang số hóa một số hạng mục tiến tới số hóa toàn bộ, xây dựng đội ngũ số hóa và điều hành trang web.
Để làm được những việc như vậy, thư viện đang từng bước “mời gọi” và đào tạo một đội ngũ nhân viên có nhiệt tâm và chịu khó học hỏi hoàn thiện mình.
Những việc làm của TVHQ đều nhằm tạo ra một dụng cụ hữu ích hỗ trợ cho người học tập, nghiên cứu tiếp nhận tri thức một cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Đồng thời, thông qua quá trình hoạt động, thư viện quay lại phát triển tự thân và tiếp tục hoạt động…
Một số việc cụ thể mà thư viện đang tiến hành:
1. Sưu tầm, biên mục và số hóa mảng sách Hán Nôm, đặc biệt là Hán
Nôm Phật giáo
Đây là mảng sách được quan tâm nhất vì ba lý do:
Thứ nhất, Hán Nôm là lĩnh vực đặc thù của Thư viện Huệ Quang, vì Thư viện Huệ Quang trực thuộc Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang.
Thứ hai, Hán Nôm là loại sách gắn bó hàng nghìn năm với dân tộc và Phật giáo nên tư liệu chứa đựng trong mảng sách này rất nhiều, nhiều hơn hàng trăm lần những gì mà thế hệ hiện tại biết đến. Sau đây là một ví dụ rất đơn giản để có thể thấy được lợi ích rất lớn của việc sưu tầm, biên mục, số hóa mảng sách này. kinh Vu lan, do hòa thượng Huệ Đăng diễn Nôm, là bộ kinh được tụng đọc rất phổ biến, không biết đã được tái bản bao nhiêu lần.
Những lần sau này đã xuất hiện nhiều câu có “vấn đề”. Việc tìm lại bản Nôm gốc của kinh Vu lan có thể khắc phục được các “vấn đề” đó. Hoặc như những tác phẩm Mông sơn thí thực khoa nghi, Tịnh nghiệp văn diễn nghĩa, Liên tôn yếu lãm toàn quyển của hòa thượng Bích Liên là những tác phẩm Nôm rất giá trị về văn học, tư tưởng, khoa nghi, ngôn ngữ, nghệ thuật thư pháp ra đời chưa đầy một trăm năm mà nay muốn tìm lại, tìm không được, tìm không đủ. Đây cũng là tình trạng chung đối với hàng trăm tác giả, tác phẩm Hán Nôm Phật giáo khác.
Thứ ba, Hán Nôm là mảng sách bị mai một nhanh chóng nhất trong bối cảnh hiện nay khi mà chữ Quốc ngữ gần như hoàn toàn thay thế. Việc trùng tu các tự viện và việc diện tích các tự viện ngày càng bị thu hẹp cũng làm cho loại sách vốn chiếm nhiều không gian này mau chóng lùi vào quá khứ.
2. Sưu tầm, biên mục và số hóa mảng sách tiếng Việt Phật giáo xưa, sách mới có giá trị
Có nhiều tác phẩm ra đời chưa đầy một trăm năm, thậm chí năm mươi năm mà ngày nay muốn tìm lại mà tìm không được, như bộ Việt Nam Phật giáo đấu tranh sử của Tuệ Giác in năm 1964, Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam của Vân Thanh v.v.. Bản kinh Pháp hoa của Minh Kính dịch, in năm 1938, ngày nay hầu như không ai còn biết đến. Hoặc có những bản kinh sách qua nhiều lần in, bị tam sao thất bổn, nay muốn tìm lại bản đầu không biết tìm đâu. Việc lưu trữ tư liệu sẽ giúp chúng ta khắc phục các điểm này.
3. Sưu tầm, biên mục và số hóa mảng báo chí Phật giáo Việt Nam
Đã có hàng trăm tạp chí Phật giáo ra đời từ thời chấn hưng Phật giáo những năm 1930 đến nay, nhưng chưa có một công trình số hóa hoàn bị nào tập hợp các tạp chí này, thậm chí một danh mục thống kê các tạp chí Phật giáo đã tồn tại tại Việt Nam cũng không có được. Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang ra đời trước năm 1975, có đề cập đến một số tạp chí của Phật giáo, nhưng hơn bốn chục năm sau, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu nhiều hơn những gì mà Nguyễn Lang đã đưa ra.
Hiện tại TVHQ đã sưu tầm được khoảng 1/3 lượng báo chí Phật giáo trước 1975 và đang tiến hành số hóa. Cuối năm 2011 này sẽ lần lượt cho xem trực tuyến trên trang web của thư viện. Ảnh trên là ảnh màu hai trang báo chí đã được số hóa. Mỗi hình đều có logo và ký hiệu đặc biệt cho biết đó là sản phẩm của TVHQ.
4. Sưu tầm, biên mục, số hóa kỷ yếu và nội san Phật giáo
Mỗi vị tôn túc tăng ni viên tịch hầu như đều có một tập kỷ yếu; mỗi một đại lễ, đại hội, hội thảo Phật giáo cũng lưu lại kỷ yếu; các trường hạ, trường học của Phật giáo cũng thường có kỷ yếu. Các tu viện, thiền viện lớn đều có nội san như nội san Pháp luân và Nghiên cứu phật học của nhóm Già Lam - Giác Hoa, Nguyên Phong (sau đổi thành Phật Ân) của chùa Phật Ân, Suối nguồn của tu viện Huệ Quang, Đạo uyển của chùa Đức Sơn v.v. rất có giá trị. Việc tập hợp được hai mảng tư liệu đặc thù này của Phật giáo có giá trị thực tiễn sử dụng rất cao, đồng thời là tư liệu rất cần thiết đối với lịch sử và văn học Phật giáo sau này.
5. Ngoài ra, thư viện rất để tâm sưu tầm bổ sung mảng sách báo ngoại điển có giá trị, có tính công cụ nghiên cứu, có ý nghĩa văn hóa lịch sử. Và thực tế mảng sách này tại thư viện cũng đã chiếm gần một nửa.
Dưới đây là bố cục dự kiến của TVHQ sau khi tu viện Huệ Quang trùng tu xong:
- Phòng tiếp nhận và xử lý tư liệu
- Phòng thủ thư
- Phòng đọc tại chỗ (tầng ở giữa, trên giảng đường và dưới chánh điện. Các phòng khác nằm ở những dãy nhà xung quanh cùng mặt phẳng) 9m x 20m, chưa tính hành lang xung quanh 3m. Phòng này liên thông với kho sách tham khảo tại chỗ nằm ở dãy nhà sau. Nếu kho sách quá tải thì phòng đọc tại chỗ sẽ đảm nhận thêm chức năng của kho này.
- Kho sách tham khảo tại chỗ 10m x 15m (Chia khu theo ngôn ngữ, sách Phật giáo và ngoài Phật giáo…)
- Phòng báo chí
- Phòng cho mượn về nhà khoảng 4m x 6m (Các sách có nhiều bản sẽ được tích hợp ra phòng này, bên cạnh bổ sung một số khác, cũng có thể mang một kí hiệu khác để chung với phòng đọc tại chỗ)
- Phòng tư liệu quý hiếm
- Phòng nghe nhìn
- Phòng lưu niệm 4m x 6m (Trưng bày giường tủ, y áo, di cảo, của Hòa thượng khai sơn, các tác phẩm, dịch phẩm của TTDTHN Huệ Quang, có thể để mộc bản ở phòng này, một số bộ sưu tập các sách theo chủ đề, theo tác giả).
6. Những tâm hồn đồng điệu đã đồng hành cùng Huệ Quang
* Cư sĩ Định Huệ
Cư sĩ Định Huệ là "một báu vật" của Huệ Quang. Cư sĩ có sở trường về kinh học, có mức độ thâm nhập các bộ kinh Đại thừa và pháp môn Tịnh độ mà không mấy ai có được nhưng lúc nào cư sĩ cũng khiêm tốn với mọi người, rất kính trọng và thương yêu tăng ni dù là những học trò của mình.
Mới tờ mờ sáng, khi Huệ Quang còn chưa thực sự “tỉnh mộng”, trong bộ đồng phục áo sơ mi trắng dài tay, quần tây xanh, dáng thong dong, cư sĩ thanh thản dẫn chiếc xe đạp, có khi honda vào cổng tu viện. Sau đó cư sĩ xuất hiệt trong phòng dịch hoặc trên bục giảng với bộ đồ lam và chiếc áo tràng cũ kĩ khoác ngoài. Nhưng đến chiều lại từ giã tu viện trong bộ trang phục lúc đến, dung dị mà trang nghiêm. Trong suốt hai mươi năm qua, cư sĩ đảm nhận môn kinh, từ lớp đầu tiên đến các khóa sau này, cư sĩ chưa đi trễ hay vắng mặt buổi dạy nào. Khi tổ chức biên soạn bộ TĐPH Huệ Quang, cư sĩ là một trong những người bỏ ra nhiều công sức và tâm huyết nhất. Năm 2007, chương trình phiên dịch Đại tạng kinh được triển khai, cư sĩ lo thêm việc hướng dẫn và hiệu đính cho các nhóm dịch.
Các giờ giảng của cư sĩ được đông đảo tăng ni theo học và chăm chú lắng nghe. Diễm phúc này ngay cả những vị giảng sư nổi tiếng có hàng ngàn Phật tử luôn vây quanh, cũng không thể nào có được.
* Cư sĩ Thiện Chí Hoàng Mạnh Hùng
Anh là một doanh nhân thành đạt với sản phẩm lốp xe Trâu Nhà Nông Hiền Đức.
Dù làm kinh doanh song anh có tâm nguyện muốn mình và mọi người được đọc kinh Phật bằng tiếng Việt. Lợi nhuận có được, anh không tiếc đổ vào công việc đào tạo các khóa học, biên soạn bộ TĐPHHQ và chương trình dịch Đại tạng kinh.
Người ta chưa từng thấy vị đại thí chủ nào lại cúng dường với một tấm lòng hoan hỉ và dễ thương như anh.
Anh trả lương hậu hĩnh cho nhân viên, công nhân và khuyến khích họ ăn chay, tụng kinh.
Anh tuyển nhân sự cũng theo một tiêu chí không giống bất cứ vị giám đốc nào. Hình ảnh ấy ngày nay ta có thể thấy ở ông Lê Phước Vũ của tập đoàn Tôn Hoa Sen.
Ngoài ra, anh còn mở nhà sách, thư viện Phật giáo và nhiều hoạt động khác, nhằm đem đến cho mọi người niềm an vui đích thực.
Nhưng anh đột ngột ngã bệnh, bệnh ung thư gan. Có đến mấy chục tăng ni đăng kí sẵn sàng hiến gan cho anh. Nhưng như không dám làm phiền đến chư tăng ni, anh vĩnh viễn ra đi khi chương trình dịch Đại tạng kinh mới triển khai được một năm. Anh ra đi giữa tuổi đời còn trẻ, giữa nhiệt tâm Phật pháp trào dâng, để lại bao tiếc thương và công việc khó khăn cho người ở lại.
* Cô Vương Thị Hạnh
Cô là cô giáo dạy Việt văn. Cũng như cư sĩ Định Huệ, cô tham gia dạy từ khóa đầu tiên. Cô đi dạy đều đặn hầu như không nghỉ buổi nào và bao giờ cũng đến tu viện trước 15 phút. Với những người như cô và cư sĩ Định Huệ dường như không tồn tại khái niệm kẹt xe hay mệt mỏi là gì.
Tiếng Việt, đặc biệt là câu cú có vai trò rất quan trọng đối với việc phiên dịch. Việc nắm vững ngữ pháp câu tiếng Việt không những giúp học viên viết câu đúng câu hay mà còn giúp họ dễ dàng học tiếng Hán và khi chuyển ngữ sẽ không bị sự khống chế của cấu trúc câu tiếng Hán. Cô là người đặc biệt giỏi trong môn học đầy rắc rối này.
Nhưng rồi căn bệnh quái ác lại chiếm đoạt của Huệ Quang một giảng viên đầy nhiệt huyết. Trong thời gian hơn một năm cô thử sức mình với căn bệnh tai ác cũng là thời gian Huệ Quang phải lao đao tìm người thay thế khoảng trống thiếu cô.
Cô có vẻ ngoài hơi ngang tàng bất chấp, lời nói lại “ngang ngay sổ thẳng” nhưng chưa hề làm ai phật lòng. Có một số học viên nhiều lần “cố ý” đem những tư tưởng lệch lạc ra để chọc cô. Thật bất ngờ khi cô cũng giả vờ không biết và cứ vô tình “chỉnh lý” đầy cở sở vững chắc và hồn nhiên, lạnh lùng như một thiền sư thứ thiệt.
Người ta ai cũng mong cô quay lại, người viết bài này thì không dám mong như vậy, mà chỉ ước mong rằng có ai đó sẽ đến trong dáng hình, trong cách thức của cô, thay cô cống hiến, để cô có thể yên tâm sống cho riêng mình sau bao nhiêu năm lao tâm khổ trí cho đạo, cho đời.
* Cô Nguyễn Thị Tuyết Thanh
Cô là cô giáo giáo dạy môn Hán Kim. Bắt đầu từ khóa thứ 2, khi cô là giảng viên của Đại học Sư Phạm và cho đến tận bây giờ, khi cô là Phó trưởng khoa Châu Á - Thái Bình Dương của trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng, cô vẫn tiếp tục đều đặn đến Huệ Quang. Phải có một tình yêu như thế nào đó người ta mới gác bỏ được khối lượng công việc đồ sộ để đến với mái lá quê mùa này?
Cô có trình độ chuyên môn sâu, giọng đọc rất chuẩn, xử lý vấn đề nhẹ nhàng gãy gọn. Cô tài giỏi nhưng ý nhị và hòa đồng nên tăng ni sinh, học viên ai cũng mến yêu và tôn trọng.
Việc cô gắn bó với Huệ Quang, cũng như sau này có thêm con gái của cô là ThS. Lã Hạnh Ly, đã làm cho bộ môn Hán Kim của Huệ Quang rất ổn định.
Kết
Công việc giáo dục đào tạo xuyên suốt chiều dài của Huệ Quang. Với bao công sức đã bỏ ra, Huệ Quang mong muốn hoàn thành một số mục tiêu như đã trình bày, đặc biệt là bộ Đại tạng kinh chữ Việt, góp một viên đá nhỏ vào nền học thuật của nước nhà, giúp xiển dương Phật pháp, đem lại niềm an vui cho mọi người và những người đã đồng hành cùng Huệ Quang.
Trong những chặng đường Huệ Quang đã đi qua, ngoài những công sức từ bên trong bên ngoài mà ta có thể thấy đôi chút, còn có những công sức âm thầm ẩn kín, những đóng góp lặng lẽ từ xa, những đóng góp không bao giờ ta thấy rõ, nhưng lại là những đóng góp không hề nhỏ. Xin cầu nguyện niềm vui đến với tất cả những ai đã hi sinh, đã đem lại niềm vui cho người khác.
Phật thành đạo 2555
Thích Không Hạnh