Chữ Chung

Chữ Chung

CHUNG 鐘

Chữ 鐘 là một chữ thuộc dạng Hình thanh, sách Đường Vận《唐韻》chép phiên thiết của chữ này là Chúc dung thiết 職容切, cho âm đọc Hán Việt là “chung”. Hiện chưa tìm thấy chữ chung được viết bằng Giáp cốt văn, chỉ thấy xuất hiện o83 Kim văn thời Tây Chu 西周金文. Với hình dạng kết hợp giữa hai thành phần, gồm Kim 金 và Đồng 童. Bộ Kim 金 bên trái, thể hiện cho ý nghĩa, chung có chất liệu cấu tạo từ kim loại; chữ Đồng 童 bên phải, biểu thị cho âm đọc của chung. Vốn để chỉ một loại nhạc khí thuộc bộ gõ có xuất xứ từ giới quý tộc thời cổ đại.

Từ xưa, chung có chất liệu cấu tạo từ đá hoặc dùng kim loại như vàng, bạc, đồng, sắt để đúc thành. Có hình dạng lớn nhỏ tùy theo mục đích, nhưng đều rỗng ruột, sử dụng dùi nhỏ bằng gỗ để gõ vào phát ra âm thanh và có giá treo. Được dùng trong các nghi lễ cúng tế, âm nhạc phục vụ trong cung đình, giải trí.

Tiếng chuông đã đi vào thơ ca với những tuyệt tác lưu dấu muôn đời. Trương Kế 張繼 với bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc 《楓橋夜泊》đã khiến tiếng chuông của chùa Hàn Sơn vang vọng cho đến tận ngày nay: “姑蘇城外寒山寺, 夜半鐘聲到客船” Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền [Tạm dịch: Chùa Hàn Sơn bên ngoài thành Cô Tô, Tiếng chuông lúc nửa đêm vang vọng đến thuyền khách]. Với bản dịch thơ của Nguyễn Hàm Ninh 阮咸寧 (1808 - 1867): Thuyền ai đậu bến Cô Tô, Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Trong biểu diễn âm nhạc vào thời cổ chuông có nhiều loại, tiêu biểu như: Biên chung 編鐘: là một tổ hợp nhạc khí từ 13 đến 64 loại chuông bằng kim loại được treo trên giá, dùng dùi gõ vào phát ra âm thanh, có kích thước và khối lượng khác nhau, dùng để hòa tấu trong nghi lễ cung đình, có lịch sử được xác định từ thời nhà Chu 周 (1046 - 256 TCN); Bác chung 鎛鐘: là loại chuông lớn, trên thân có nhiều hoa văn họa tiết được đúc từ đồng xanh, xuất hiện vào thời Xuân Thu 春秋 (771 - 476 TCN); Tràng chung 撞鐘: là loại chuông được treo trên giá dùng trong biểu diễn kịch hoặc hý khúc.

Trong Phật giáo, chuông là một pháp khí quan trọng sử dụng trong nghi lễ tán tụng hoặc dùng để báo hiệu. Theo thầy Thích Thiện Phước trong sách Nghi Thức Lễ Giáo đã liệt kê, thì tùy vào chất liệu chế tạo và công dụng nên chuông có các tên gọi khác nhau, tiêu biểu gồm:

Loại chuông lớn treo trong Chánh điện được gọi là Đại chung 大鐘 (Việt Nam thường gọi là Đại hồng chung 大洪鐘), ngoài ra còn có các tên gọi khác như: Khi đánh tiếng chuông ngân vang khắp cõi chùa (Phạn vũ 梵宇, Phạn sát 梵殺) nên gọi là Phạn chung 梵鐘; Khi đánh tiếng chuông trong trẻo và vang vọng nên gọi là Hồng chung 洪鐘; Do trên quai chuông có đúc hình con Bồ Lao 蒲牢, có đặc tính về tiếng kêu rống rất to. Trên biển có loại cá Kình 鯨漁, khi gặp Bồ Lao thì đánh khiến Bồ Lao kêu lên, muốn chuông có âm vang to người ta thường đẽo cái chày có hình cá Kình để đánh chuông, vì thế nên gọi là Kình chung 鯨鐘.

Loại chuông nhỏ hơn treo bên ngoài được gọi là Tiểu chung 小鐘, theo sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy《敕修百丈清規》có kể tên các loại chuông với chức năng như sau: Chuông treo ở Tăng đường được gọi là Tăng đường chung 僧堂鐘, dùng để báo hiệu tập hợp chư Tăng, báo hiệu giờ giấc các thời khóa trong tự viện; Chuông nhỏ treo ở ngoài hay trong Chánh điện gọi là Điện chung 殿鐘, dùng báo hiệu giờ lên Chánh điện sử dụng liên thông với chuông ở Tăng đường.

Khi bước vào chùa nhằm giờ thỉnh chuông, ta nghe văng vẳng lời kệ khai chuông trầm ấm. Dứt một đoạn kệ là một tiếng chuông vọng vang ngân dài, khiến tâm hồn trở nên an tĩnh lạ thường. Chuông là một pháp khí vô cùng quan trọng chốn Thiền môn, tiếng chuông ngân vang cảnh tỉnh hồng trần, khiến lòng người muôn nẻo hướng về nương tựa. Mỗi khi nghe tiếng chuông không cần phải đợi nhắc nhở, trong tự giác của mỗi người con Phật đều đồng loạt khởi niệm: “Văn chung thinh phiền não khinh,...” hay “Nghe tiếng chuông ngân dứt não phiền,...”. Đủ để thấy tiếng chuông có một sự ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tâm thức của một người Phật tử thuần thành.

Tài liệu tham khảo:

1. 顾建平,汉字图解字典,中国出版集团,2008.

2. 漢典,鐘,Truy xuất từ: https://www.zdic.net/hans/%E9%90%98. (Ngày truy cập 31/12/2024).

3. 百度百科,龙生九子,Truy xuất từ: https://baike.baidu.com/.../%E9%BE%99%E7%94%9F%E4.../24512. (Ngày truy cập 31/12/2024).

4. Thi Viện, Phong Kiều Dạ Bạc, Truy xuất từ: https://www.thivien.net/.../poem-YJ1m_uGYnaxfjMJeLFnbMA. (Ngày truy cập 31/12/2024).

5. Tỳ-kheo Độc Thể, Pháp Kệ Tỳ Ni Nhựt Dụng Thiết Yếu, Nhựt Minh soạn dịch, Minh Ngọc hiệu đính, Nxb. Hồng Đức, 2019.

6. Thích Thiện Phước, Nghi Thức Lễ Giáo (Tập 6), Nxb. Hồng Đức.

7. Thiền sư Đức Huy trùng biên, Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng dịch, Nxb. Phương Đông, 2008.

CHIA SẺ

Bài viết khác

Bài viết tiếp theoChữ Y
Bài viết trướcTháng và tiết khí

Tưởng niệm Ân Sư

Tưởng niệm Ân Sư

Tra cứu thư mục

Chọn thể loại:

Tặng sách - sách tặng

Tặng sách - sách tặng

Liên kết ngoài

Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài