Chữ Hạ

Chữ Hạ

Hạ 夏

Hạ là thời khắc mà đất trời đạt đến độ viên mãn, cây cỏ tươi tốt, con người tràn đầy nhiệt huyết. Trong âm lịch, mùa hạ được quy định từ tháng tư đến tháng sáu. Trong âm dương, ngũ hành, mùa hạ thuộc hành Hỏa, cực dương.

Chữ hạ 夏, cấu thành bởi:

Bộ hiệt 頁: đầu (Trong chữ hạ 夏, bộ hiệt bị tỉnh lược bớt hai nét ở bên dưới)

Bộ tuy 夊: dáng đi chậm chạp

Trong cuốn Tìm Về Cội Nguồn Chữ Hán của tác giả Lý Lạc Nghị có giải thích: [Hạ 夏] “Nghĩa gốc là "người Hoa" (Thuyết văn), tức là tên một bộ tộc cổ đại ở vùng Trung Nguyên. Hiện nay người Trung Quốc vẫn tự xưng là "Hoa Hạ." Kim văn là hình dạng một người có đầy đủ đầu 页 [頁] hiệt và chân tay. Chữ hạ trong từ mùa hạ là từ đồng âm mượn của chữ này”.

Trong Thuyết văn giải tự giải thích hạ 夏 như sau: “中國之人也。从夊从頁从𦥑。𦥑,兩手;夊,兩足也”。(Phiên âm: Trung quốc chi nhân dã. Tòng tuy tòng hiệt tòng cúc. Cúc, lưỡng thủ; tuy, lưỡng túc dã.)

Tạm dịch: Người dân Trung Quốc (ở đây chỉ người Hoa Hạ). Chữ Hạ 夏 được cấu hình bởi ba bộ: 夊; 頁; 𦥑. 𦥑 là hai tay; 夊 là hai chân. (Về sau, trong Khải thư đã lược bỏ đi bộ 𦥑).

Trong cuốn Tế thuyết hán tự ——1000 niên hán tự đích khởi nguyên dữ diễn biến 细说汉字——1000年汉字的起源与演变 của tác giả Tả Dân An 左民安 có giải thích: 在字义上,“夏”字的本义是“人”——“中国之人”(这里的“中国”指黄河中游流域,即中原),后假借指一年四季之中的第二季。Tạm dịch: Về nghĩa đen, nghĩa gốc của từ “Hạ” là “người” - “người Trung Quốc” (“Trung Quốc” ở đây ám chỉ vùng trung lưu sông Hoàng Hà, tức vùng trung nguyên), sau này (giả tá) để chỉ mùa thứ hai trong số bốn mùa trong năm.

Chữ hạ 夏 có nghĩa gốc chỉ người Hoa Hạ, sau này (giả tá) để chỉ mùa thứ hai trong số bốn mùa trong năm. Mùa hạ thuộc giai đoạn “thành” trong vòng tuần hoàn của vũ trụ (sinh, thành, hoại, diệt). Nó nhắc nhở con người rằng mọi thứ đều có giai đoạn hưng thịnh, nhưng cần chuẩn bị cho sự chuyển tiếp về sau.

Bài viết này, đã kết lại đủ cả xuân hạ thu đông, nhân đây xin gửi đến quý độc giả một câu thơ vừa khéo chứa cả bốn mùa. Một câu thơ trong bài Cảm vấn lộ tại hà phương 敢問路在何方, bài thơ của Diêm Túc (閻肅) được chuyển thể làm nhạc phim Tây Du Ký 1986 có lẽ không còn gì quá xa lạ với chúng ta.

Nguyên văn:

敢問路在何方

你挑著擔、

我牽著馬,

迎來日出、

送走萬象。

踏平坎坷、

成大道,

斗罷艱險、

又出發、

又出發。

啦啦啦啦啦、

啦啦啦啦啦。

幾番番春秋冬夏,

你嚐嚐酸甜苦辣。

敢問路在何方?

路在腳下!

敢問路在何方?

路在腳下!

(閻肅)

Phiên âm:

Nhĩ khiêu trước đảm,

Ngã khiên trước mã,

Nghinh lai nhật xuất,

Tống tẩu vạn tượng.

Đạp bình khảm khả,

Thành đại đạo,

Đấu bãi gian hiểm,

Hựu xuất phát,

Hựu xuất phát.

Lạp lạp lạp lạp lạp,

Lạp lạp lạp lạp lạp.

Kỷ phiên phiên xuân thu đông hạ,

Nhĩ thường thường toan điềm khổ lạt.

Cảm vấn lộ tại hà phương?

Lộ tại cước hạ.

Cảm vấn lộ tại hà phương?

Lộ tại cước hạ.

Dịch nghĩa:

Anh gồng gánh,

Tôi dắt ngựa,

Đón mặt trời lên,

Đuổi đi mọi thứ (chắc là mọi yêu quái).

Đạp bằng những gập ghềnh,

Thành đường bằng,

Chiến thắng gian hiểm,

Lại xuất phát,

Lại xuất phát.

La la la la la,

La la la la la.

Biết bao lần xuân hạ thu đông,

Anh nếm bao chua ngọt đắng cay.

Hỏi đường tại nơi nào?

Đường dưới chân ta!

Hỏi đường tại nơi nào?

Đường dưới chân ta!

 

CHIA SẺ

Bài viết khác

Bài viết tiếp theoChữ Tùng
Bài viết trướcChữ Đông

Tưởng niệm Ân Sư

Tưởng niệm Ân Sư

Tra cứu thư mục

Chọn thể loại:

Tặng sách - sách tặng

Tặng sách - sách tặng

Liên kết ngoài

Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài