Mạch 麥
Chữ mạch 麥được ghi nhận xuất hiện sớm nhất ở thời kì Giáp cốt văn, ngày nay ta dùng chỉ lúa mì, lúa mạch. Thông thường chia ra hai loại: “tiểu mạch” 小麥 hột không có tua, nhiều phấn, hột dùng để làm miến, làm bánh, làm tương; “đại mạch” 大麥 hột có tua dài, chuyên để thổi cơm ăn, thân nó dùng để đan mũ (mạch tửu 麥酒 chỉ rượu làm bằng lúa mạch).
Trong Giáp cốt và Kim văn, tự hình 麥 được cấu thành từ bộ tuy夊 (chỉ việc đi lại) và có phần biểu âm là chữ lai 來. Ban đầu, lai來 chính là tự hình nguyên thủy của chữ mạch 麥này, nó mô tả hình ảnh cây lúa [1]. Có một thuyết khá thú vị giữa lai và mạch, người ta cho rằng vì chữ lai (vốn chỉ cây lúa) thường được dùng giả tá với nghĩa là vãng lai (đi lại), nên về sau họ đã tạo ra chữ 麥 này, tức là thêm tuy vào dưới lai để biểu thị nghĩa vãng lai ấy. Nhưng vì lại đã bị mượn xuyên suốt để chỉ nghĩa vãng lai, nên vì vậy mạch đã đảm nhiệm luôn nghĩa là cây lúa của chữ lai. [1]
Trong sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, ông giải thích chữ này như sau: “芒穀,秋穜厚薶,故謂之麥。麥,金也。金王而生,火王而死。从來,有穗者;从夊。凡麥之屬皆从麥。” Nghĩa là: Mạch, là loại ngũ cốc có tua (tức là loại hạt có lông nhọn như râu ở đầu hạt), được trồng vào mùa thu, cắm sâu xuống đất, cho nên được gọi là mạch. Lúa mạch thuộc hành kim trong ngũ hành. Kim vượng thì sinh (lúa mạch được trồng vào mùa thu, thuộc hành kim), hỏa vượng thì tàn (mùa thu hoạch lúa này là mùa hè, thuộc hành hỏa). Chữ 麥 cấu tạo gồm bộ lai 來 (hình tượng lúa có bông穗) và phần 夊 (hình chân bước đi). Phàm các từ liên quan đến lúa mạch đều lấy theo bộ 麥 này. [2]
Dẫn theo Khang Hy tự điển có đoạn sách Lễ kí chép rằng: “孟夏麥秋至。” Nghĩa là: tháng mạnh hạ (đầu mùa hè) thì mùa thu của lúa mạch tới. Thái Ung giải thích rằng: Trăm loài cốc thường nảy mầm vào xuân, chín vào thu. Riêng lúa mạch chín vào đầu hạ, nên nói với lúa mạch thì tháng tư là mùa thu. [3]
Trong bài Trở binh hành 《阻兵行》 của Đại thi hào Nguyễn Du có 4 câu cuối như sau: [4]
黃河以北麥又熟,
百日而輩妻子皆得生。
歸來歸來勿作死,
撫臣惠保如父兄。
Phiên âm:
Hoàng hà dĩ bắc mạch hựu thục,
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sanh.
Quy lai quy lai vật tác tử,
Phủ thần huệ bảo như phụ huynh.
Dịch nghĩa:
Bắc Hoàng Hà mạch chín vàng
Trăm ngày sắp đến, cả làng ấm no.
Về đi chớ vội chớ lo,
Quan trên gìn giữ thương cho dân lành.
Thư viện Huệ Quang – Đoàn Thanh Ngân
Tài liệu tham khảo
[1] 漢語多功能字庫, 麥 , Truy xuất từ: https://humanum.arts.cuhk.edu.hk/Lexis/lexi-mf/search.php?word=%E9%BA%A5
[2] Hứa Thận, Thuyết văn giải tự chân bản, “Quyển 5”, Bản scan từ bản của Đại học Waseda lưu giữ
[3] 汉典, 麥, Truy xuất từ: https://www.zdic.net/hans/%E9%BA%A5
[4] Thi viện, Trở binh hành 阻兵行, Truy xuất từ: https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Du/Tr%E1%BB%9F-binh-h%C3%A0nh/poem-wLBO_S7oDu5BwDnRbL0Axg