Chữ Thư

Chữ Thư

Thư 書

Chữ 書 Thư đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử Hán tự. Khi khảo sát tự hình chữ này ở Giáp cốt văn, ta thấy rằng người xưa đã vẽ lại hình ảnh bàn tay đang cầm một vật giống như nhánh cây (biểu thị dụng cụ để viết), bên dưới có một kí tự giống như chữ khẩu 口.

Đến thời kỳ của Kim văn, tự hình của chữ Thư thay đổi rất nhiều. Ở giai đoạn này, chữ Thư có kết cấu hình thanh. Trong đó phần hình vẽ bàn tay cầm vật dụng để viết vẫn được giữ lại từ Giáp cốt văn, về sau sẽ chuyển hóa thành kí hiệu 聿 (bộ Duật, là tiền thân của chữ 筆 bút). Phần kí tự giống như 口 đã được thay thế bằng một bộ phận biểu âm, đó là kí tự 者 (âm Hán Việt đọc là Giả). Tự hình 者 trong chữ Thư ở Kim văn, hoặc Lệ thư trên trúc giản và bạch thư, như 睡虎地秦简Thụy Hổ địa Tần giản và馬王堆帛書Mã Vương đôi Bạch thư đều thể hiện rất rõ. Về sau một số hình thức viết của Lệ thư cho đến Khải thư, phần 者 này đã được giản lược đi một chút [1].

Trong Thuyết văn giải tự, Hứa Thận giải thích chữ Thư như sau: 書,箸也。从聿者聲。Tức là: Chữ Thư, có nghĩa là viết. [Thư] thuộc bộ Duật, chữ Giả biểu âm. [2]

Về ngữ nghĩa của chữ này, thì gần như mọi người đều đã quen thuộc. Chẳng hạn khi dùng làm động từ, thì Thư có nghĩa là viết. Từ “Thư pháp” chính là dùng theo nghĩa này, để chỉ phương pháp viết chữ. Khi dùng làm danh từ, nghĩa của chữ Thư cũng xoay quanh những vật vốn là kết quả của việc viết, như: sách, thư từ, đơn,… Hoặc là lối viết chữ Hán như 隸Lệ, 楷Khải, 行Hành, 草Thảo; Hoặc là phương thức cấu tạo của chữ Hán 六書 lục thư.

Chữ Thư còn là tên gọi tắt của một trong Ngũ Kinh của Nho gia, chính là 尚書 Thượng thư, vì được xếp vào hàng kinh cho nên cũng được gọi 書經Thư kinh (người Việt ta hay gọi là Kinh Thư). Thượng thư là một hình thức sử thư cổ đại, ghi chép câu chuyện hoặc lời của các vị vua, đại thần thời Hạ, Thương, Chu như Nghiêu, Thuấn, Thành Thang, Văn Vương,… Nếu nói về tầm quan trọng với Nho gia, thì Thi và Thư còn đứng trên cả Dịch. Khổng tử từng dẫn Thư để nói về mối liên hệ giữa 孝弟“hiếu đễ” và việc trị lí như sau: 子曰:「書云:『孝乎惟孝、友于兄弟,施於有政。』是亦為政,奚其為為政?」(Tử viết: Thư vân: “Hiếu hồ duy hiếu, hữu vu huynh đệ, thi ư hữu chính” thị diệc vi chính, hề kỳ vi vi chính?). Tức: “Khổng tử đáp: Kinh Thư nói: “Hiếu chỉ hiếu với cha mẹ, thân với anh em, hãy đưa phong khí này vào chính trị.” Như vậy cũng là tham gia chính trị rồi, cớ sao phải làm quan mới là tham gia chính trị chứ?” [3]

Tài liệu tham khảo

[1] 漢語多功能字庫, 書, URL: https://humanum.arts.cuhk.edu.hk/Lexis/leximf/search.php...

[2] Hứa Thận, Thuyết văn giải tự chân bản, “Quyển 3”, Bản scan từ bản của Đại học Waseda lưu giữ

[3] Dương Bá Tuấn (chú giải), Ngô Trần Trung Nghĩa (dịch), Luận ngữ chú giải. Nxb. Văn Học, 2019, trang 48.

CHIA SẺ

Bài viết khác

Bài viết tiếp theoChữ Lễ
Bài viết trướcChữ Dịch

Tưởng niệm Ân Sư

Tưởng niệm Ân Sư

Tra cứu thư mục

Chọn thể loại:

Tặng sách - sách tặng

Tặng sách - sách tặng

Liên kết ngoài

Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài