Chữ Thử

Chữ Thử
Thử 黍

Chữ thử 黍 là một chữ thuộc nhóm chữ Hình thanh, được ghi nhận xuất hiện sớm nhất ở thời kì Giáp cốt văn. Chữ thử黍 mang nghĩa là lúa nếp, lúa mùa (lá nhỏ và nhọn, có lông thô, hạt trắng hoặc vàng, có chất nhựa). Đặc điểm nổi bật của loại này là hạt to, sau khi nấu chín có độ dẻo, dính, vì vậy nó thường được dùng để nấu rượu, làm bánh.

Thời Giáp cốt văn, chữ Thử tuy có nhiều tự hình khác nhau, nhưng các học giả thường cho rằng hình tượng của chữ này dùng để vẽ một cây nếp. Nó có ba kiểu viết tượng hình khác nhau, nhưng đều cùng biểu đạt hình ảnh bông lúa rủ xuống - nét đặc trưng của loại cây này. [1] Ở Giáp cốt, cũng có một tự hình của chữ này được viết thêm bộ thủy 水, về sau Kim văn và Triện văn đã kế thừa tự hình này. Bộ phận còn lại của chữ này trong Kim văn cũng được thay bằng tự hình của bộ hòa 禾.

Trong sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận giải thích chữ黍 như sau: “禾屬而黏者也。以大暑而穜,故謂之黍。从禾,雨省聲。孔子曰: “黍可爲酒,禾入水也。” 凡黍之屬皆从黍。” Nghĩa là: Chữ 黍là một loại thuộc họ lúa, nhưng có tính chất dính, dẻo. Loại cây này được gieo trồng vào tiết Đại thử (khoảng tháng 6 âm lịch), nên gọi là thử. Chữ thử 黍 gồm bộ hòa 禾 biểu ý và chữ vũ 雨 giản lược để biểu âm. Khổng Tử nói: “Lúa kê có thể dùng để nấu rượu, vì là loại lúa có thể hòa vào nước.” Tất cả những loài thuộc họ loại lúa này, đều dùng chữ thử 黍 để biểu ý. [2]

Tuy nhiên, theo một số học giả cách giải thích của Hứa Thận chưa hoàn toàn chính xác, vì sao cùng một bộ phận trong chữ, ông lại khi thì cho là từ 雨 giản lược, lúc lại giải thích là nhập 入 và thuỷ水? Hứa Thận sở dĩ có cách hiểu như vậy, có thể là do ông căn cứ vào hình dạng của chữ Tiểu triện, mà phần dưới của chữ 黍 trong Tiểu triện thoáng giống như bộ 雨 lược thể (Lý Hiếu Định 李孝定).

Như vậy, thử黍được dùng để làm rượu, làm thức ăn (dùng trong cỗ, thậm chí là làm cháo). Ngoài ra, nó cũng có thể được dùng trong các nghi lễ, như tu biên 羞籩 (cúng lễ, dâng đồ cúng) và di chúc酏粥 (cháo trong các nghi lễ). Ngày xưa, vật dụng đựng rượu cũng gọi là thử.

Trong bài, Lạng Sơn đạo trung ký kiến 《諒山道中記見》 của tác giả Phan Huy Ích 潘輝益 có 4 câu cuối như thế này: [3]
朔寒早至霜埋地,
秋熟新芟穀委田。
黍甑酒竿歌土語,
荒陬咸樂太平年。

Phiên âm:
Sóc hàn tảo chí sương mai địa,
Thu thục tân san cốc ủy điền.
Thử tắng tửu can ca thổ ngữ,
Hoang tâu hàm lạc thái bình niên.

Dịch thơ:
Sớm đông sương phủ đầy làng,
Lúa thu gặt mới bạt ngàn thơm hương.
Chõ rượu nếp, tiếng ca vương,
Làng quê hẻo lánh nhưng thường an vui.

Thư viện Huệ Quang – Đoàn Thanh Ngân

Tài liệu tham khảo
[1] 漢語多功能字庫, 黍 , Truy xuất từ: https://humanum.arts.cuhk.edu.hk
[2] Hứa Thận, Thuyết văn giải tự chân bản, “Quyển 7”, Bản scan từ bản của Đại học Waseda lưu giữ
[3] Thi viện, Lạng Sơn đạo trung ký kiến 諒山道中記見, Truy xuất từ: https://www.thivien.net 
CHIA SẺ

Bài viết khác

Bài viết tiếp theoChữ Túc
Bài viết trướcChữ Đạo

Tưởng niệm Ân Sư

Tưởng niệm Ân Sư

Tra cứu thư mục

Chọn thể loại:

Tặng sách - sách tặng

Tặng sách - sách tặng

Liên kết ngoài

Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài