Chữ Túc

Chữ Túc

Túc 粟

Chữ Túc 粟là một chữ thuộc nhóm chữ Hội ý, chữ này xuất hiện khá muộn, mãi đến thời Triện văn mới ghi nhận sự xuất hiện của chữ 粟. Chữ 粟mang nghĩa gốc là thóc lúa, lúa tễ, tục gọi là tiểu mễ 小米. Chữ túc trong triện văn có thể được cấu tạo từ bộ mễ米 (gạo) hoặc bộ hòa 禾 (lúa) làm thành phần biểu ý, kết hợp với giác 角 làm thành phần biểu âm. [1]

Trong sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận cho biết chữ 粟 này như sau: “嘉穀實也。从𠧪 从米。孔子曰:“𥻆之爲言續也”。” Nghĩa là: (粟) Là hạt của cây ngũ cốc tốt, chữ này cho nghĩa (hội ý) bởi chữ dữu 𠧪 và bộ mễ 米. Khổng Tử nói: Chữ 𥻆 này (tức lúa, ngũ cốc) có nghĩa là sự tiếp nối không dứt. [2] Đoàn Ngọc Tài có giải thích thêm rằng: Ngày xưa, đối với dân chúng thì lương thực chẳng có gì quan trọng hơn lúa và kê, cho nên gọi chúng là gia cốc嘉穀 (lương thực quý). Cốc 穀 là tên gọi chung của hàng trăm loại ngũ cốc, còn gia 嘉 nghĩa là tốt đẹp, quý giá, còn hạt của chúng gọi là túc 粟.

Có ý kiến cho rằng, hình thể của chữ 角 trong văn cổ đã bị Thuyết văn giải tự giảng giải sai lầm, cho rằng nó được viết từ chữ điều 𠧪 (một dạng tự hình cổ), nhưng về sau lại tiếp tục sai lệch hơn, biến dạng thành chữ tây 西, từ đó hình thành chữ 粟 như hiện nay. [1]

Ngoài ra, chữ này còn có mang một số nghĩa như: Chấm nhỏ nổi trên da vì gặp lạnh (nổi da gà); Bổng lộc (do vua ban) như trong sách Sử ký có chép: Vũ Vương đã bình định loạn Ân, thiên hạ đều quy về nhà Chu, nhưng Bá Di và Thúc Tề lấy đó làm điều nhục nhã, nên quyết không ăn thóc gạo của nhà Chu, ẩn cư nơi núi Thủ Dương, chỉ hái rau vi mà sống. [1]

Lại nói thêm, trong sách Chu Lễ, có chép: Lữ sư (chức quan lo về binh dịch) phụ trách việc thu gom các loại lương thực ở vùng dã ngoại, bao gồm: Sở túc 耡粟; Ốc túc 屋粟; Gian túc 閒粟. Trong sách Nhĩ nhã cho biết thêm: (Còn có) chữ thuật秫 dùng để chỉ loại túc 粟 có tính chất dính, tức là loại kê nếp (giống như lúa nếp), giống với ngũ cốc, nhưng hạt gạo dính. [3]

Người phương Bắc thường dùng loại này để nấu rượu, thân cây và cọng của nó giống cây lúa, nhưng to hơn và thô hơn.

Trong bài Hữu cảm kỳ 2 《有感其二》của tác giả Nguyễn Khuyến 阮勸 có 4 câu đầu như sau: [4]

年年貧病我何堪,

憑藉群公孝共探。

繼粟使教炊得早,

臥窗因送酒來酣。

Phiên âm:

Niên niên bần bệnh ngã hà kham,

Bằng tá quần công hiếu cộng tham.

Kế túc sử giao xuy đắc tảo,

Ngoại song nhân tống tửu lai hám.

Dịch:

Nghèo bệnh quanh năm, chịu được không?

May điều sở thích tôi như ông.

Gạo cho vào chỗ mong xôi sớm,

Người nghỉ bên song đợi rượu ngon.

(Trần Văn Nhỉ dịch)

Thư viện Huệ Quang – Đoàn Thanh Ngân

Tài liệu tham khảo

[1] 漢語多功能字庫, 粟 , Truy xuất từ: https://humanum.arts.cuhk.edu.hk

[2] Hứa Thận, Thuyết văn giải tự chân bản, “Quyển 7”, Bản scan từ bản của Đại học Waseda lưu giữ

[3] 汉典, 粟, Truy xuất từ: https://www.zdic.net/hans/%E5%8F%94

[4] Thi viện, Hữu cảm kỳ 2 有感其二, Truy xuất từ: https://www.thivien.net

CHIA SẺ

Bài viết khác

Bài viết tiếp theoChữ Mạch
Bài viết trướcChữ Thử

Tưởng niệm Ân Sư

Tưởng niệm Ân Sư

Tra cứu thư mục

Chọn thể loại:

Tặng sách - sách tặng

Tặng sách - sách tặng

Liên kết ngoài

Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài