Tháng và tiết khí

Tháng và tiết khí

Người Á Đông từ xưa đã có lịch pháp, gọi là Nông lịch, nay một số người vẫn nhầm rằng Nông lịch là chỉ âm lịch, nhưng thực chất nó là một loại âm dương hợp lịch. Trong đó, âm lịch dựa vào chu kì của mặt trăng để tính, ngày mùng một mỗi tháng gọi là ngày sóc 朔, ngày mùng một tháng giêng thì gọi là chinh sóc 正朔 (hoặc có người gọi là chính sóc). Ngày xưa việc thay triều đổi vị, vua ban lịch pháp mới cũng gọi là 正朔 Chính sóc. Sử ta cũng hay chép việc triều đình ban sóc, hoặc xin Bắc triều ban sóc. Ngày trăng tròn của tháng thì gọi là ngày “vọng”, nay ta vẫn thấy cụm từ “sóc vọng” trong sách, dùng để chỉ hai ngày mùng một và mười lăm. Ngày xưa lễ pháp vua ban, khi thần tử vào yết kiến vua vào các ngày này hoặc ngày đại lễ đều có quy định riêng biệt. Người làm nông xưa, cũng tuân thủ theo chỉ thị của triều đình vào từng tháng mà làm việc. Các tháng có tên gọi khác nhau, đến nay người Việt vẫn còn lưu giữ được một vài cách gọi, thường có thể tìm thấy trong sách sử, hoặc lạc khoản trong các bức hoành phi và đối liên, chẳng hạn:

Tháng một là Chinh nguyệt 正月 (nay cách gọi tháng giêng là từ đây mà ra), Sơ nguyệt 初月, Mạnh xuân 孟春, Dần nguyệt 寅月,…

Tháng hai là Trọng xuân 仲春, Trọng nguyệt 仲月, Mão nguyệt 卯月…

Tháng ba là Quý xuân 季春, Vãn xuân 晚春, Mộ xuân 暮春, Tàm nguyệt 蚕月, Thìn nguyệt 辰月,…

Tháng tư là Mạnh hạ 孟夏, Âm nguyệt 陰月, Phạp nguyệt 乏月, Tị nguyệt巳月,…

Tháng năm là Trọng hạ 仲夏, Thiên trung 天中, Ngọ nguyệt 午月,…

Tháng sáu là Quý hạ 季夏, Nhục thử 溽暑, Mùi nguyệt 未月,…

Tháng bảy là Mạnh thu 孟秋, Xảo nguyệt 巧月, Thân nguyệt 申月,...

Tháng tám là Trọng thu 仲秋, Trung thu 中秋, Chính thu 正秋, Dậu nguyệt 酉月,…

Tháng chín là Quý thu 季秋, Mộ thu 暮秋, Vãn thu 晚秋, Huyền nguyệt 玄月, Tuất nguyệt 戌月,…

Tháng mười là Dương nguyệt 陽月, Mạnh đông 孟冬, Hợi nguyệt 亥月,…

Tháng mười một là Trọng đông 仲冬, Đông nguyệt 冬月, Tí nguyệt 子月,…

Tháng mười hai là Lạp nguyệt 臘月(nay tháng chạp từ cách gọi từ Lạp nguyệt mà ra), Quý đông 季冬, Sửu nguyệt 丑月,…

Còn dương lịch được biểu hiện thế nào? Ngày nay nhiều người vẫn hay gọi dương lịch thay cho Tây lịch hay Công lịch. Trong bài chữ “Tiết” đã đăng trước đó, có nói về việc “Lịch pháp cổ đại, dựa vào vị trí của mặt trời, chia thời gian trong một năm thành 24 điểm, mỗi điểm gọi là một tiết khí 節氣 đó chính là dương lịch”. Một năm có 24 tiết khí, chia đều ra cho mỗi mùa mỗi tháng, một mùa có 6 tiết khí, mỗi tháng có 2 tiết khí, mỗi tiết khí cách nhau khoảng 15 ngày. Mở đầu mùa xuân là tiết Lập Xuân 立春, kết thúc mùa xuân là tiết Cốc Vũ, mùa xuân bắt đầu tháng giêng nên tiết Lập Xuân cũng sẽ rơi vào đầu tháng giêng âm lịch và Cốc Vũ sẽ rơi vào cuối tháng ba âm lịch. Ngày nay, một số người xem bói toán, vẫn hay thấy họ định tháng bằng tiết khí, chẳng hạn ngày mùng một tháng giêng đã là ngày bắt đầu của tháng giêng, nhưng những người xem bói vẫn hay xem ngày Lập Xuân mới là ngày chính thức bước vào tháng giêng. Mở đầu mùa Hạ là tiết Lập Hạ 立夏, kết thúc là tiết Đại Thử 大暑. Mở đầu mùa thu là tiết Lập Thu 立秋, kết thúc là tiết Sương Giáng 霜降. Mở đầu mùa Đông là tiết Lập Đông 立冬, kết thúc là tiết Đại Hàn 大寒. Tiết Đại Hàn cũng là tiết khí cuối cùng của một năm, đây là thời điểm được cho là lạnh nhất năm (thực chất cũng còn tùy vào vùng địa lí mà Tiểu Hàn cũng có thể là thời điểm lạnh nhất). Năm nay, tiết Đại Hàn rơi vào ngày 21 tháng 1, nhằm ngày 22 tháng chạp âm lịch. Ở Việt Nam khoảng thời gian này, người ta đã bắt đầu sắm sửa, dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị cúng tiễn ông Táo, ở một số vùng đã tảo mộ tổ tiên, hoặc lặt lá mai xong từ trước đó để chuẩn bị đón tết.

Nguồn ảnh: internet

CHIA SẺ

Bài viết khác

Bài viết tiếp theoChữ Chung
Bài viết trướcChữ Đại

Tưởng niệm Ân Sư

Tưởng niệm Ân Sư

Tra cứu thư mục

Chọn thể loại:

Tặng sách - sách tặng

Tặng sách - sách tặng

Liên kết ngoài

Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài