Câu đối Hán Nôm là một loại hình nghệ thuật đầy tao nhã và tài hoa của ông cha ta. Xuất hiện thường nhật trong môi trường giáo dục thời phong kiến, câu đối được giảng dạy từ lớp vở lòng của học trò từ những mẫu tiểu đối dần dần phát triển thành những câu đối dài hơn qua lượng tri thức dần được tiếp thu qua thời gian, nội dung càng trở nên phong phú và đa dạng trích dẫn nhiều điển tích trong kinh điển Nho gia, thi ca danh tác các đời hoặc thậm chí là tức cảnh sinh tình ra vế đối. Là một thể loại văn học có mức độ nghiêm ngặt chuẩn chỉn về từng câu từ, luật bằng trắc và cả về nội dung.
Câu đối được khắc hoặc viết để trưng bày vào những nơi trang trọng, qua nội dung câu đối ta cũng có thể nhận biết được một phần nào tính cách và phong thái của người viết hay người chủ sở hữu. Hiện nay ở các cơ sở thờ tự là nơi loại hình nghệ thuật này còn được lưu giữ và bảo tồn qua bao năm tháng. Nội dung chủ yếu của các câu đối ở đây thường là ca ngợi Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), các bậc thần linh (Thiên thần, Nhân thần, những vị thần được vua chúa sắc phong), những tư tưởng đạo đức của Tam giáo (Nho, Phật, Đạo), đề cao tôn vinh cái đẹp của con người, thể hiện vẻ đẹp của văn chương thi họa hoặc danh lam thắng cảnh,... Đặc biệt ở những ngôi chùa thì câu đối còn thể hiện và tôn vinh những tư tưởng, ý nghĩa sâu xa cao cả, đó là những triết lý Phật giáo từ bình dân giản dị đến triết lý cao siêu uyên áo. Tùy vào năng lực của người sáng tác, khả năng của người viết chữ mà câu đối có những nét đặc trưng riêng về nghệ thuật và nội dung. Chúng tôi xin giới thiệu vài câu đối xuất hiện ở những ngôi cổ tự trong địa bàn Nam bộ, để tìm hiểu thêm về nội dung và sự truyền tải ý nghĩa từ những bậc cổ nhân đến người đời nay.
Dưới đây là hai cặp câu đối ở chùa Giác Viên ngụ tại đường Lạc Long Quân, phường 3, quận 11, TP. Hồ Chí Minh. Nơi đây được xem là một trong những ngôi cổ tự có lịch sử lâu đời nhất ở TP. Hồ Chí Minh.
Câu đối đầu tiên đặt ở hàng cột thứ tư (nhìn từ ngoài vào) của Chánh điện, không rõ tác giả và niên đại:
Nguyên văn:
覺了禪機色上是空空是色
圓明佛旨無中而有有而無
Phiên âm:
Giác liễu Thiền cơ, sắc thượng thị không, không thị sắc,
Viên minh Phật chỉ, vô trung nhi hữu, hữu nhi vô.
Dịch nghĩa:
Giác ngộ rõ ràng được cái then chốt của Thiền, trên sắc là không, không là sắc.
Hiểu thấu đầy đủ yếu chỉ của Phật pháp, trong không mà có, có mà không.
Một trong những đặc điểm đặc trưng của câu đối là hai chữ đầu của mỗi vế khi ghép lại sẽ tạo thành tên địa danh hay tên nhân vật chính được thờ tự. Ở cặp đối này hai chữ đầu của mỗi vế ghép lại là Giác Viên 覺圓 để chỉ tên ngôi chùa đang sở hữu. Khi dịch câu đối ra mà muốn tuân thủ quy tắc giữ nguyên hai chữ đầu của mỗi câu thì rất khó, vì để biểu đạt ý nghĩa và nội dung một cách rõ ràng đôi khi phải dùng một chữ khác để thay thế, hoặc dùng nghĩa của nó để thay thế cho từ Hán Việt, vì vậy muốn thưởng thức được giá trị về nội dung và cả nghệ thuật của câu đối, điều kiện trọng yếu nhất là ta cần phải biết chữ Hán cổ và am hiểu về các điển tích cũng như thuật ngữ trong tôn giáo, văn chương,...
Ở câu đối này sử dụng nhiều thuật ngữ của Phật giáo, nhìn chung thì có sử dụng các chữ trong Bát-nhã Tâm kinh 般若心經 mà một người Phật tử nào cũng biết mỗi khi nhắc đến. Câu đối được ngắt theo nhịp 4/4/3, chữ cuối của mỗi nhịp ở hai vế đều đối ứng với nhau về mặt âm điệu và cả nội dung hay từ loại như:
- Thiền cơ 禪機 - Phật chỉ 佛旨: Đối ứng về từ loại (danh từ); về thuật ngữ trong Phật giáo; về luật đối (cơ/bằng - chỉ/trắc).
- Không 空 - Hữu 有: Đối ứng về nội dung (không với có); về luật đối (không/bằng - hữu/trắc).
Thị sắc 是色 - Nhi vô 而無: Đối ứng về từ loại kết hợp (Hư từ - thị với nhi); về thuật ngữ trong Phật giáo; về luật đối (sắc/trắc/vế trái - vô/bằng/vế phải).
Về nội dung, ở vế trái mang nghĩa là: Giác ngộ rõ ràng được cái then chốt của Thiền, trên sắc là không, không là sắc. Nêu ra tông chỉ của Thiền tông, khi ta giác ngộ một cách rõ ràng được cái then chốt, cái quan trọng nhất của Thiền là ta thấy được hai chữ sắc và không luôn tương quan với nhau, sắc không rời không, không chẳng rời sắc, loại bỏ được cái phân biệt giữa sắc và không đó chính là yếu chỉ tối cao của Thiền. Ở vế phải mang nghĩa là: Hiểu thấu đầy đủ yếu chỉ của Phật pháp, trong không mà có, có mà không. Cũng tương tự như vế trái, nội dung của vế này thể hiện sự hiểu thấu một cách đầy đủ về yếu chỉ của Phật pháp thì trong cái không sẽ hiện hữu cái có và ở cái có luôn có sự tồn tại của cái không. Cả hai yếu tố này không tách rời nhau, người nhìn bằng con mắt không phân biệt (Pháp môn Bất nhị 不二法門) thì là người hiểu rõ một cách am tường về Phật pháp. Chúng tôi tạm dịch thành vế đối sau:
Giác ngộ Thiền cơ, trên sắc là không, không là sắc,
Viên thông Phật lý, trong không mà có, có mà không.
Với một dung lượng truyền đạt lớn và mang nhiều ý nghĩa, nhưng khi được các bậc tiền nhân sử dụng vào câu đối chỉ gói gọn vỏn vẹn trong 22 chữ, với mỗi vế 11 chữ. Từ đó cũng đủ để thấy được sự tài hoa và uyên bác của người viết và giá trị của câu đối mang đến. Xin được trân trọng giới thiệu đến bạn đọc về một góc nhỏ trong kho tàng di sản văn hoá Hán Nôm đồ sộ của dân tộc ta qua cặp đối này.