Tìm hiểu câu đối chùa Giác Viên Phần 2

Tìm hiểu câu đối chùa Giác Viên Phần 2

     Tiếp tục với chuyên mục TỪ TRONG DI SẢN, xin giới thiệu tiếp cặp câu đối thứ hai ở chùa Giác Viên, được đặt ở hàng cột thứ nhất nơi hành lang sau (nhìn từ trong ra) của Đông lang, không rõ tác giả và niên đại:

Nguyên văn:

入三關凈三業修三摩地

投五體洗五根得五福田

Phiên âm:

Nhập tam quan, tịnh tam nghiệp, tu tam-ma-địa,

Đầu ngũ thể, tẩy ngũ căn, đắc ngũ phước điền.

Dịch nghĩa:

Vào cổng tam quan, làm thanh tịnh ba nghiệp, tu tập chánh định,

Gieo mình năm vóc, tẩy sạch năm căn, được năm phước điền.

Ở câu đối này vừa kết hợp sử dụng các thuật ngữ trong Phật giáo, vừa kết hợp với danh số (tam và ngũ), trong đó số ở vế sau phải lớn hơn vế trước (5 lớn hơn 3) và được ngắt theo nhịp 3/3/4.

Nhập tam quan 入三關 đối với Đầu ngũ thể 投五體, hai động từ Nhập (đi vào) và Đầu (gieo mình) đối ứng với nhau. Tam quan 三關 là cổng tam quan (gồm có ba lối vào) ở trước chùa được đối lại bằng Ngũ thể 五體 là năm vóc của con người (hai đầu gối, hai khuỷu tay và đầu).

          Tịnh tam nghiệp 凈三業 đối với Tẩy ngũ căn 洗五根, tịnh và tẩy có cùng một nghĩa là làm cho trong sạch, tam nghiệp gồm ba nghiệp là thân nghiệp khẩu nghiệp và ý nghiệp đối với Ngũ căn gồm năm căn là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân (ngoài ra còn thêm 1 căn nữa là ý căn, thường được gọi là Lục căn nhưng do phạm vi giới hạn của danh số là 5 nên chỉ đưa năm căn vào mà không phải là sáu).

 

          Tu Tam-ma-địa 修三摩地 đối với Đắc ngũ phước điền 得五福田, ở đây sử dụng nghệ thuật chơi chữ khi dùng chữ Tam-ma-địa để đối với Ngũ phước điền (năm công đức khi lạy Phật theo Kinh Tăng Nhất A-hàm: xinh đẹp, hai là tiếng hay, ba là lắm tiền nhiều của, bốn là sanh nhà trưởng giả, năm là chết sanh lên trời, các cõi lành). Tam ở đây về phần âm đọc thì mang ngụ ý chỉ số ba để đối lại số năm, mà tam còn là một bộ phận của phiên âm Phạn Hán, mà gọi đầy đủ là Tam-ma-địa có nghĩa là chánh định. Theo Tự điển Phật học: Tam-ma-địa có nghĩa là xa lìa hôn trầm, trạo cử, là tác dụng của tinh thần, tâm chuyên trú vào một cảnh, không tán loạn. Ngoài ra ở chữ cuối của mỗi vế gồm địa và điền đã đối ứng với nhau về mặt âm đọc một cách hoàn hảo còn khiến người đọc liên tưởng đến sự đối nhau giữa nghĩa riêng của hai chữ này (địa - đất đối với điền - ruộng). Việc sử dụng cách đối này cho thấy tác giả rất uyên bác và uyển chuyển trong việc sử dụng thuật ngữ Phật giáo để sử dụng vào câu đối. Về mặt nội dung và ý nghĩa thì có thể ta cảm nhận rằng nó không có sự đối ứng với nhau hoặc đối ứng không tương xứng, nhưng về mặt từ ngữ hay niêm luật thì nó có sự đối ứng hài hoà. Chúng tôi tạm dịch như sau:

Vào tam quan, tịnh tam nghiệp, tu tập tam muội,

Gieo năm vóc, tẩy năm căn, được năm phước điền.

          Có thể hiểu ý nghĩa của câu đối này như sau: Người vào đến cổng tam quan, nếu như làm thanh tịnh được ba nghiệp thân khẩu ý của mình thì có thể tu tập để đạt được Tam-muội (Chánh định) và Người gieo năm vóc sát đất (để đảnh lễ Phật) thì sẽ tẩy sạch được nghiệp chướng của năm căn và có được năm phần phước điền to lớn.

          Xin được trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.

CHIA SẺ

Tưởng niệm Ân Sư

Tưởng niệm Ân Sư

Tra cứu thư mục

Chọn thể loại:

Tặng sách - sách tặng

Tặng sách - sách tặng

Liên kết ngoài

Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài
Liên kết ngoài