"Bắt nguồn sâu xa từ kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Đà la ni do đại sư Bất Không phiên dịch và truyền bá ở Trung Quốc vào đời Đường, phép cúng thí thực có mục đích đem tình thương bao la cứu độ loài ngạ quỷ lang thang khổ sở giữa chốn u minh. Sang đời Tống, đại sư Bất Động tham cứu thêm các kinh điển Mật tông khác, diễn dịch thành phép Tiểu thí thực. Vì đại sư tu tập ở núi Mông Sơn (nay thuộc huyện Danh Sơn, tỉnh Tứ Xuyên), nên phép này được gọi là Tiểu Mông Sơn và được thực hành hằng ngày như một khoa nghi thiết yếu của Mật tông. Qua các đời Nguyên, Minh, khoa nghi này dần biến đổi, pha trộn với nghi thức của các tông phái khác, chen thêm phần văn thí thực, triệu thỉnh vào phần trì chú biến thực, siêu độ, thể hiện trọn vẹn lòng từ bi vô lượng của Phật giáo, nhằm cứu độ mọi chúng sinh còn trôi nổi lạc loài trong Ba đường dữ.
Khoa nghi này truyền sang nước ta đã lâu đời, thường được gọi là nghi thức đăng đàn chẩn tế, do các cao tăng làm sám chủ. Hiện còn thấy 2 bản bằng chữ Hán in đời Khải Định: một bản tàng trữ ở chùa Báo Quốc (Huế) và một bản có phần diễn Nôm của Hòa thượng Bích Liên (in năm 1922 tại chùa Vĩnh Khánh, Bình Định). Bản thứ hai có nội dung phong phú hơn bản đầu. Bản đầu đã được phiên dịch và phát hành, tuy nhiên vẫn còn đôi chỗ sai sót. Bản sau chưa được phiên âm công bố.
Hòa thượng Bích Liên là một vị cao tăng uyên thâm Nho học, có công lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo nước nhà vào đầu thế kỷ 20. Ngài đã đem hết đạo tâm, văn tài diễn Nôm nguyên tác, văn từ lưu loát, điêu luyện, dễ dàng tán tụng khi hành lễ. Bản này có giá trị cao, xứng đáng được xếp vào các tác phẩm văn học Nôm của Phật giáo nước nhà mà số lượng còn quá ít ỏi như Quan Âm Thị Kính, Phật Bà Chùa Hương v.v."
Trích: Mông Sơn thí thực khoa nghi (Hán văn - diễn Nôm - phiên âm - chú giải) - Nguyễn Văn Thoa biên soạn.
Ảnh: Mông sơn thí thực khoa nghi (HQPĐTS-44) của HT. Bích Liên do Thư viện Huệ Quang ảnh ấn theo nguyên tác.